100 Bài Giáo Lý Kinh Thánh

100 Bài Giáo Lý Kinh Thánh

(GIỜ ĐỀN TẠ CỦA GIA ĐÌNH )
Lm. Ph. Hoàng Minh Tuấn biên soạn 
(Lưu hành nội bộ) 1999


[BBT] Nhóm Khơi Nguồn xin chân thành cám ơn cha Hoàng Minh Tuấn cho phép đăng bài này. Xin Chúa chúc lành và tuôn đổ muôn hồng ân xuống cho cha và trong sứ vụ của cha.


Bài 73 (bis)

HAI PHƯƠNG ÁN CỦA THIÊN CHÚA

Trích thư Rôma 3.21-28

Nhưng nay thì không tùy vào luật nào, Thiên Chúa tỏ cho thấy cách Người làm cho người ta nên công chính, đó là nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, không phân biệt đó là người Do thái hay người ngoại, vì mọi người hết thảy đều đã phạm tội và khuyết hẳn vinh quang Thiên Chúa.

Nhưng nay thì họ được giải án tuyên công một cách nhưng không do ân huệ của Người mà thôi, nhờ công cuộc cứu chuộc đã thành tựu trong Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã định cho Đức Kitô phải đổ máu mình ra làm phương thế xá tội cho những kẻ tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính, trung tín giữ lời hứa Người sẽ cứu độ. Trước kia, trong thời Thiên Chúa cầm mình nhẫn nhịn, thì Người đã bỏ qua các tội lỗi loài người đã phạm. Nhưng vào thời bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người là Đấng trung tín giữ lời hứa cứu độ, thì Người ra tay giải án phạt và tuyên bố là công chính hóa kẻ nào nại đến lòng tin vào Đức Giêsu.

Vậy thì con người có gì mà hãnh diện tự đắc ? Thưa chẳng có gì. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng : người ta có được giải án phạt tội và được tuyên bố là công chính, đó là bởi vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy.

*          Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !

Suy niệm Lời Chúa

Bài Kinh Thánh hôm nay, anh chị em nghe nó buồn, khô khan và khó hiểu. Nhưng nó lại là bài vô cùng căn bản, trọng đại, vì nó toát yếu tất cả đạo Kitô của chúng ta. Từ xưa, các linh mục cứ nghĩ giáo dân ít học, đem bài Kinh Thánh ấy ra đọc, giáo dân sẽ không hiểu nổi, có đem giải nghĩa cũng chẳng thấm vào lòng trí được. Hôm nay, chúng tôi cậy vào ơn Thánh Thần soi sáng và tin tưởng vào anh chị em mà đem ra giảng giải. Mời mọi người cố gắng động não hơn một chút nhé !

Bắt đầu ta nghe đọc : “Nhưng nay thì...”. Chữ “nhưng” là một chữ dùng để nói ngược điều nói ở trước. Ví dụ : “Anh thích ăn, nhưng tôi không thích”. Rồi đến chữ “nay thì...”. Nay là đối nghịch với xưa. Vậy nay thì sao, mà xưa thì thế nào ?

Đáp : “Xưa” Thiên Chúa có một kế hoạch khác, “nay” kế hoạch khác (gọi theo tiếng đời nay là phương án). Kế hoạch hay phương án xưa thế nào ? Câu “không tùy vào luật nào” cho hiểu : phương án xưa là tùy vào luật lệ, nghĩa là sau khi nhân loại chúng ta phạm tội phản nghịch Thiên Chúa ở vườn địa đàng, Chúa đuổi ra khỏi nơi diệu quang, sống vất vả, khổ sở, càng ngày càng bị ma quỉ và tội lỗi lôi cuốn vào sự chết. Trước tình cảnh ấy, Thiên Chúa hoạch định một phương án cứu chuộc lại. Phương án ấy như sau :

Thiên Chúa, Đấng Thánh thiện, ngự trên trời, vì thương loài người lầm lạc trong đêm tối tội lỗi, mới ban lề luật chỉ đàng cho họ, để họ làm theo đó mà được cứu. Nào luật tự nhiên như luật trong lương tâm, rồi luật của các đạo, các tôn giáo bên Tây phương, cũng như Đông phương, khắp nơi ; chẳng hạn bên Á đông chúng ta thì có những giới luật của đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, đạo ông bà... dạy người ta diệt tham sân si, phải hiếu đễ, phải nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... và còn bao giới luật khác... dạy ăn ngay ở lành, đừng lấy của, giết người, hà hiếp, tham lam, bất công... - Thiên Chúa chưa lấy làm đủ, Người còn chọn một dân riêng, gọi là dân Israen, ban cho họ một bộ luật hoàn bị hơn, gọi là luật Môsê. Để thí nghiệm xem nếu thành công thì sẽ đem áp dụng truyền lan cho khắp cả thế giới.

Nhưng, anh chị em có đoán được kết quả là thế nào không ? Là số không ! Đây ta chỉ trích một câu tiêu biểu nhất : Thiên Chúa nhờ miệng tiên tri Ysaia mà trách dân Israen : “Ta đã chẳng tiếc công trồng một vườn nho quí, rào giậu kín đáo, đặt tháp canh, khoét bồn nho, tưới bón đủ cả ; nói tóm, chẳng có gì có thể làm mà Ta đã chẳng làm cho vườn nho. Thế mà Ta lại chỉ gặt hái được nho chua lè, thay vì nho ngọt lịm ? Ta chỉ thấy dân Israen sản xuất ra toàn độc ác, bạo tàn”, tội lỗi, thay vì đạo đức, tốt lành, yêu thương.

Thánh Phaolô cũng nhận định như thế trong thư Roma, khi ông được Chúa soi sáng nói ra thế này : “Dân Do thái cũng bị Chúa thịnh nộ, kết án, mặc dù họ có bộ luật hoàn bị hơn, mặc dù họ có phép cắt bì, mặc dù có các lời hứa”, và bao phép lạ, điềm thiêng Chúa làm cho họ, nào phép lạ đi qua biển đỏ ráo chân, bánh manna, chim cút, nước uống giữa sa mạc, được vào đất chảy tràn sữa và mật. Kết quả ra sao? Dân Do thái càng ngày càng tội lỗi, đến nỗi Chúa bỏ mặc họ, thế là quân ngoại đến tấn công, tàn phá thánh đô Yêrusalem, phá hủy Đền Thờ, nhà tan cửa nát, dân chúng bị đi đày sang Babilon, và lần sau, còn bị tản mác lưu vong khắp cả thiên hạ cho đến ngày nay... Kết quả của phương án xưa (gọi là phương án 1) chỉ là con số không !

Còn dân ngoại thì có khá hơn không ? Thưa : còn tệ gấp bội. Thánh thư Roma, kê ra một bảng các tội lỗi của họ đủ mọi thứ : loạn luân, đồng tính luyến ái, độc ác, bạo tàn, kiêu ngạo, ác quái, gian tham... Anh chị em còn nhớ lời Chúa phàn nàn : Suốt ngày từ sáng đến tối, đầu óc chúng chỉ nặn ra toàn độc dữ. Nên Thiên Chúa lấy làm hối tiếc vì đã dựng nên loài người. Sau đó, Chúa đã xóa sạch họ trên địa cầu bởi lụt Đại Hồng thủy (sách Khởi Nguyên, ch.6-7). Thánh thư Roma cũng kết luận : dân ngoại cũng mắc án thịnh nộ của Thiên Chúa.

Tóm tắt : Tất cả loài người, không trừ ai, đều tội lỗi, đã phạm tội và khuyết vinh quang, mất ơn sủng Thiên Chúa, như ta đọc trong bài Kinh Thánh trên đầu. Chúa ban cho họ luật, và dạy : Hễ ai giữ trọn lề luật thì nhờ đó, được sống đời đời. Rồi Chúa ngồi trên trời, chờ đợi họ lên để Người phán xét xem có giữ trọn luật không (luật lương tâm, luật tôn giáo, nhất là luật Môsê), để Người sẽ thưởng cho họ sự sống đời đời. Chẳng ai trong họ đạt tiêu chuẩn cả. Chúa như chờ mãi mà chẳng có ai đạt để cho vào thiên đàng. Chẳng một ai đạt! Abraham, Đavít... dù khá lắm trong hàng tôi trung của Thiên Chúa đó, ấy thế mà Chúa cũng thấy các ông có phạm tội. Ta chưa quên tội ngoại tình ông phạm với bà Bét-sa-bê, vợ tướng U-ria... ; sau đó, sợ tai tiếng, ông đã giết chồng bà ta để tự do lấy bà ấy về làm vợ. Đó, người khá nhất mà cũng vậy.

Thế là phương án 1, kế hoạch xưa đã thất bại hoàn toàn. Một cách nào, ta có thể nói rằng : Thiên Chúa đã thất bại. Rút kinh nghiệm đau thương ấy, Chúa bèn lập một phương án mới thứ hai : Không tùy vào luật nào cả. Từ nay, Chúa không bảo loài người : hễ giữ trọn luật thì nhờ đó được thưởng sự sống đời đời. Thế thì sẽ tùy vào cái gì ? Thưa : tùy vào lòng tin nơi Đức Giêsu, như sau đây sẽ trình bày. Đây, phương án 2 là thế này : Thiên Chúa không còn cứ ở trên trời như trước, giữ một sự xa cách và đợi loài người chết rồi phán xét để tính sổ xem giữ có trọn luật không, được bao nhiêu công nghiệp, tập được bao nhiêu nhân đức. Và nếu Chúa phán xét thấy đủ, thì thưởng cho sự sống đời đời (x. Mt 19.17-19). Nhưng nay, Thiên Chúa xé trời mà xuống giữa loài người (Ysaia 64.19), giữa Thiên Chúa và loài người không còn có lằn ranh không thể vượt qua ngăn cách nữa. Thiên Chúa đã xuống, không phải ở giữa loài người như xưa ngự vô hình trong Đền Thờ, trên Hòm bia Giao ước, nhưng Người mặc lấy thân xác để làm một người, như chúng ta. Thánh Gioan viết : “Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta” (Ga 1.14).

Làm như thế để làm gì ?

Để thánh hóa bản tính loài người, hoặc nói cách khác : để biến đổi bản tính xấu xa, tội lỗi, cho sạch tội mà nên tốt lành, thánh thiện như bản tính Thiên Chúa. Vì khi Thiên Chúa mặc lấy bản tính loài người, thì xảy ra là Thiên Chúa thì thánh thiện, vô cùng vinh hiển và tốt lành. Còn xác phàm Chúa nhận lấy thì dính đầy vết nhơ tội lỗi. Ta có thể ví Thiên Chúa là một người rất sạch sẽ, lịch sự ; khi nhận lấy thân xác loài người, thì như thể Người vào ở một cái phòng bẩn thỉu, thối tha, lộn xộn, tối tăm. Đáng lý ra, Người không chịu nổi, không sống nổi. Song vì lòng yêu thương, Người cố quyết sống để rồi dọn dẹp, quét tước, sửa sang cho nó nên sạch, nên đẹp, Người biến đổi nó nên lịch sự, sạch sẽ như Người ! (Rm 8.3; 2Cor 5.21; 1Pr 2.21).

Thiên Chúa biến đổi bản tính nhân loại lúc nào ? cách nào ?

Thưa : Ngay khi Nhập Thể trong lòng Trinh Nữ Maria, Ngài đã biến đổi, đã thánh hóa cách nào rồi, nhưng nhất là khi tế lễ mình trên thập giá. Đó là chóp đỉnh việc biến hóa, thánh hóa. Khi Đức Giêsu dâng mình tế lễ cho Chúa Cha, vì yêu mến và vâng phục Cha, thì Cha vui lòng lắm, Người chấp nhận của lễ ấy, và ban Thánh Thần xuống làm cho Đức Giêsu sống lại, thân xác Đức Giêsu được phục sinh. Từ nay, bản tính nhân loại Đức Giêsu được cứu chuộc hoàn toàn, không còn mang chút gì nhơ bẩn, tội lụy, tối tăm, yếu đuối. Nói thế không bảo là ĐY đã phạm tội nào. Đức Giêsu không hề phạm tội, Ngài vô tội (Ga 8.46; Híp-ri 4.15), nhưng cái bản tính loài người Ngài mặc lấy thì do từ nguyên tổ Ađam, Eva truyền xuống là bản tính hư hỏng, đầy dẫy vết tích tội lỗi (Rm 8.3). Ngài phải mang lấy thì mới tẩy sạch nó được chứ.

Bây giờ, ta nói tiếp, từ khi phục sinh, Thánh Thần đã đến tẩy sạch, biến đổi, thánh hóa, và làm cho toàn thân mình Đức Giêsu được đầy thần tính Thiên Chúa như Thánh Phaolô dạy trong thư Coloxê (2.9) : “Bây giờ, trong cả thân xác Đức Giêsu, đều có thần tính Thiên Chúa ngự một cách sung mãn”. Như thế, Đức Giêsu giống như “cái lò bát quái” của Thái Thượng lão quân trong truyện Tây Du Ký, cái lò biến hóa, cái lò luyện nên thánh. Nó đã nhờ sức Chúa Thánh Thần như lửa cực nóng, luyện cái thân xác Đức Giêsu nên trong sạch, thánh thiện, đầy tràn vinh quang, ơn sủng. Đó là điều mà bài Kinh Thánh trên đầu nói : “Công cuộc cứu chuộc đã thành tựu nơi Đức Giêsu Kitô (x. Híp-ri 5.8-10).

-           Hỏi : Công việc trên đây ăn nhằm gì với chúng ta, người trần, phạm đầy tội lỗi xấu xa ?

Thưa : Ăn nhằm lắm chứ ! Phải nói : chính vì để biến đổi, thánh hóa chúng ta mà Chúa mới làm công việc đó ! Nghĩa là sau khi bản tính nhân loại cá nhân Đức Giêsu được biến đổi, tức là công cuộc cứu chuộc đã thành tựu trong Chúa Kitô, thì Thiên Chúa mời chúng ta : có muốn được biến đổi, được thánh hóa, tức là được cứu chuộc, được sự sống đời đời và được thiên đàng hạnh phúc vô cùng không ? Ta đã bày ra “một phương thế xá tội” rồi đó !

-           Thế là ai muốn thì Chúa bảo : Ta chỉ đòi một điều kiện : hãy tin vào Đức Giêsu, gắn bó với Đức Giêsu (thường được biểu lộ ra bằng việc bên ngoài là chịu Phép Rửa tội), thì được vô trong “cái lò bát quái” là Đức Giêsu Tử nạn Phục sinh nói trên. Vào trong đó, Chúa Thánh Thần sẽ luyện ta sạch (tức là ta được tha thứ tội lỗi), được biến đổi thành con người mới, càng ngày càng thánh thiện, càng ngày Thánh Thần càng làm cho “cái tôi” khốn nạn của ta chết đi. Điều này mới quan trọng, làm chết “cái tôi” khốn nạn này là đầu mối gây ra mọi tội lỗi. Cho nên, việc tẩy luyện trong “lò bái quái Đức Giêsu” không chỉ dừng lại ở việc tha tội, song là cứ dần dần làm chết đi “cái tôi”, là gốc rễ mọi tội lỗi, để từ nay, một cái tôi khác là Chúa sống trong ta (Galát 2.26). Ta sẽ đầy ơn Chúa, đầy quyền năng, được làm con Chúa, và được vào Nước Thiên Chúa, tức là Nước thiên đàng bắt đầu ngay từ trần gian (như sau sẽ bàn) và mãi mãi đến muôn đời.

Kinh Thánh nói : một khi bản thân Ngài đã nên thành toàn, thì Ngài nên nguyên nhân cứu rỗi cho ta. Đó là phương án hai của Thiên Chúa. Các anh chị em có thấy đòi điều kiện là phải giữ trọn luật nào đâu ! Không hề thấy ! Đây là chuyện nhưng không mà chỉ cần : Hãy tin ! Mời đọc lại câu đầu của bài Kinh Thánh hôm nay thì rõ : “Nhưng nay thì không tùy vào luật nào, Thiên Chúa tỏ cho thấy một cách khác. Chúa làm cho người ta nên công chính mà không cần nhờ vào luật, đó là nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế...”. - “Họ được giải án phạt (được tha tội) và được tuyên bố là công chính (tức được nên thánh thiện) một cách nhưng không” bởi vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy.

Ta kết luận sao ?

Thưa : Ta phải nhận định rằng : Chúa thương ta quá bội, đã lập một phương án mới hết sức dễ dàng và đồng thời lại vô cùng kỳ diệu: coi như Chúa làm hết cả. Chúng ta không còn phải gồng mình giữ luật, ăn chay, tụng niệm... để lập công nghiệp nữa... Chúa lãnh lấy tất cả và làm thay cho ta rồi. Nay chỉ việc tin, tin hết lòng, tự đáy lòng, bám lấy Chúa Giêsu, gắn bó với Ngài, là được vào trong Ngài ; trong đó, Thánh Thần sẽ luyện tẩy, biến đổi chúng ta...

Khi thấy Chúa thương như thế, ta chỉ biết vui mừng, ca hát, ngợi khen Chúa vô cùng vô tận, tức là hát ca tạ ơn Chúa suốt cuộc đời. Vui lên hỡi anh chị em ! Hãy vỗ tay ! Hãy ca hát ngợi khen Chúa ! Đời chúng ta từ nay không được phép buồn, cho dù gặp cay đắng, vất vả, khổ đau. Chúng ta đang ở trong Chúa Kitô cơ mà ! “Tôi sống, nhưng xem ra là không phải tôi, chính Chúa Kitô phục sinh đang sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, trong cuộc sống thường ngày, công ăn việc làm, giải trí, yêu đương..., tôi sống tất cả các sự đó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và đã phó mình chịu chết cho tôi, để tôi được sống và hạnh phúc “ (Galát 2.20). Như thế, hỏi còn buồn sao được ? Như thế chỉ còn vui thôi ! Ôi! Chớ gì anh chị em thấu hiểu được, ắt anh chị em sẽ vui sướng và hạnh phúc !

Tích truyện

Một hôm kia, Hoàng hậu Anh quốc là Vic-to-ria ăn mặc giả làm dân, đi thăm một xưởng giấy. Chủ xí nghiệp ra đón tiếp và mời đi tham quan chỗ này, chỗ nọ, chỉ cho bà biết cách làm giấy như thế nào. Tới một chỗ có đông công nhân đang lựa lọc những giẻ bẩn mà người ta mới tải về, còn đang bay mùi rác rưởi hôi thối, khó chịu. Bà bèn hỏi :

-           Giẻ bẩn thế này mà ông dùng để làm gì ?

-           Thưa, để làm giấy.

-           Nhưng nó vừa đen bẩn, bừa đủ thứ màu, làm sao cho ra giấy trắng được ?

-           Thưa, được chứ ! Bởi cách chế tạo nhờ các chất hóa học thì không còn thấy màu nữa, mà chỉ ra giấy trắng như tuyết.

-           Thật lạ lùng !

Sau đó, bà ra về. Cách ít lâu, bà nhận được một xấp giấy thật đẹp, trắng như tuyết, làm bằng các thứ vải dơ bẩn, hôi thối bà thấy hôm nọ. Bà bèn lấy ra một tờ giơ lên coi, thì cũng thấy hình của bà trong ấy nữa.

Chúng ta cũng vậy, là giẻ dơ bẩn, hôi hám ; nếu ta tin, ta được nhập vào “lò bát quái” là Đức Giêsu phục sinh, ta bèn trở nên trắng như tuyết, được tái sinh vào một đời sống mới, công chính, thánh thiện, đến nỗi Chúa Kitô thành hình trong chúng ta.

*    [Hãy cùng nhau hát một bài thật vui mừng, sống động mà ca ngợi, cám ơn Chúa].