Đôi khi ta nghe người ta nói rằng các trước tác thiêng liêng ngày nay không phản ảnh trọn bộ tín lý về Chúa Thánh Thần. Nhiệm vụ của các nhà chuyên môn là phải suy niệm sâu xa hơn về công trình của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi và các trước tác thiêng liêng Kitô Giáo phải làm nổi bật hành động ban sự sống của Người. Các trước tác này phải đặc biệt đào sâu mối liên hệ kín nhiệm giữa Chúa Thánh Thần và Đức Trinh Nữ Thành Nadarét, và cho thấy ảnh hưởng của nó đối với Giáo Hội. Càng suy niệm thấu đáo các mầu nhiệm Đức Tin hơn bao nhiêu, lòng đạo đức của ta càng trở nên chủ yếu hơn bấy nhiêu.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết như thế trong thông điệp “Tôn Sùng Đức Mẹ” (Cultus Marialis) năm 1974. Điều Đức Thánh Cha có thể đã biết hay không biết là Thánh Maximillian Kolbe (1894-1941) đã dành phần lớn đời sống của ngài để khai triển ra một nền thần học về Đức Mẹ nói lên được mối liên hệ kín nhiệm giữa Thánh Thần Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Thành Nadarét; một nền thần học phong phú trong quán niệm, độc đáo trong phương thức, và góp phần vào lòng đạo đức mang lại nhiều sinh lực hơn cho các chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Trung thành với Thánh Truyền Công Giáo, Thánh Maximillian Kolbe tin rằng Đức Maria có một vị thế hết sức trổi vượt trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa; là người cộng tác đầy ý thức vào mọi ơn thánh Chúa ban cho con người. Tuy nhiên, trong khi Thánh Truyền, qua các nhà trước tác như Thánh Louis de Montfort, hay nhấn mạnh tới Chức Làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ, coi như đó là nền tảng giáo huấn của mình, thì Thánh Kolbe lại cho rằng tư cách trung gian phổ quát các ơn thánh của Đức Mẹ chủ yếu liên hệ với và được dẫn khởi từ mối liên hệ thân mật và kín nhiệm với Chúa Thánh Thần.
Vị thánh người Ba Lan này cho rằng mọi ơn thánh cuối cùng đều đến với chúng ta từ Đức Chúa Cha, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Con một của Người, và được Chúa Thánh Thần phân phối; và, khi phân phối các ơn thánh ấy, Chúa Thánh Thần luôn hành động trong và qua Đức Mẹ, không phải vì Người bắt buộc phải làm như vậy, nhưng chỉ vì, trong kế hoạch cứu rỗi của mình, Thiên Chúa muốn làm như thế. Và sở dĩ Thiên Chúa muốn làm như thế là vì một lý do: Chúa Giêsu, nguồn mọi ơn thánh, đã đến với chúng ta qua Đức Mẹ nhờ công trình của Chúa Thánh Thần; bởi thế, quả thật mọi ơn thánh đều đến với chúng ta qua Đức Mẹ, nhờ công trình của Chúa Thánh Thần.
Mặt khác, Thánh Kolbe còn nói rằng con đường, qua đó, ơn thánh của Chúa đến với chúng ta, tức từ Đức Chúa Cha, qua Đức Chúa Con và nhờ Đức Chúa Thánh Thần, là nghịch đảo với con đường ta trở lại với Chúa. Con đường ta trở lại với Chúa, tức việc ta yêu thương đáp trả tình yêu và ơn thánh của Người, tiến từ Đức Chúa Thánh Thần (Đấng luôn hành động qua Đức Mẹ), qua Đức Chúa Con và về cùng Đức Chúa Cha.
Đối với Thánh Kolbe, vai trò hết sức nổi bật của Đức Mẹ trong sự sắp xếp (ordo) này của Chúa, tức việc ơn thánh và tình yêu từ Chúa đến với con người, và tình yêu từ con người đáp trả lại Thiên Chúa, đặc biệt phát sinh từ việc ngài hợp nhất một cách độc đáo và hết sức thân mật với Chúa Thánh Thần. Thánh nhân cho rằng Chúa Thánh Thần ngự trong linh hồn Đức Mẹ một cách khôn tả đến độ vượt quá và sâu sắc hơn cả sự hợp nhất giữa Chúa Thánh Thần và linh hồn ta nhờ ơn thánh hóa của Bí Tích Rửa Tội.
Để soi sáng phần nào sự kết hợp mật thiết giữa Đức Mẹ và Ngôi Ba Thiên Chúa, Thánh Kolbe đã mô phỏng Thánh Truyền mà gọi Đức Mẹ là ‘người phối ngẫu” của Chúa Thánh Thần. Nhưng ngài cũng cho rằng thuật ngữ này không thoả đáng hoàn toàn, không lột tả trọn vẹn mối liên hệ mật thiết và hết sức huyền nhiệm này. Vì trong hôn nhân, người đàn ông và người đàn bà, nhờ ơn thánh bí tích, được hợp nhất thành “một thân xác”. Nhưng sự kết hợp giữa Đức Mẹ và Chúa Thánh Thần mật thiết hơn nhiều sự kết hợp trong hôn nhân. Đã đành, trong các loài thụ tạo do Chúa dựng nên, sự kết hợp giữa vợ chồng là sự kết hợp mật thiết hơn hết. Nhưng Chúa Thánh Thần sống ngay trong linh hồn Đấng Vô Nhiễm, trong thẳm cung chính con người của ngài.
Điều gì đáng kể nhất trong mối liên hệ đặc biệt của Đức Mẹ với Chúa Thánh Thần? Thánh Kolbe cho hay đó chính là việc ngài được vô nhiễm nguyên tội từ lúc tượng thai, một việc sở dĩ có được là nhờ công trình trực tiếp của Chúa Thánh Thần. Nhờ Đức Mẹ được Vô Nhiễm Thai, nên Chúa Cha và Chúa Con muốn rằng Đức Mẹ sẽ kết hợp nên một với Thánh Thần Yêu Thương chung của cả hai ngôi vị, một cách gần gũi và mật thiết đến có thể cho phép Chúa Thánh Thần thực hiện được việc Nhập Thể của Ngôi Lời ngay trong lòng Đức Mẹ, khiến ngài trở nên Mẹ Thiên Chúa; và mặt khác, sự kết hợp này phải cho phép Đức Mẹ trở thành dụng cụ hay máng chuyển qua đó Chúa Thánh Thần sẽ phân phát mọi ơn thánh do Chúa Kitô tạo lập được. Thánh Kolbe nhấn mạnh rằng ý nghĩa chính xác của tước hiệu “Vô Nhiễm Thai” là một mầu nhiệm lớn, quá sâu sắc và huyền nhiệm đến độ không thể nào hiểu thấu.
Cách tiếp cận của Thánh Kolbe, nhất là việc ngài nhấn mạnh tới mối liên hệ giữa ơn Vô Nhiễm Thai của Đức Mẹ với tư cách làm trung gian phổ quát mọi ơn thánh của ngài, đã tìm được sự ủng hộ trong thông điệp Marialis Cultus (Tôn Sùng Đức Mẹ) và nhiều trước tác khác của Thánh Truyền. Trong Marialis Cultus, Đức Giáo Hoàng Phoalô VI nói rằng cùng với xu hướng Kitô học trong lòng sùng kính đối với Đức Thánh Nữ Trinh, quả là thích hợp nếu ta làm “nổi bật thêm lòng sùng kính này bằng một trong những sự kiện chủ yếu của Đức Tin đó là Ngôi Vị và công trình của Chúa Thánh Thần”. Cùng trong đoạn văn ấy, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI còn cho hay: cả suy tư thần học lẫn phụng vụ đều nhấn mạnh đến việc: sự can thiệp đầy thánh hóa của Chúa Thánh Thần nơi Đức Mẹ là giờ phút tuyệt đỉnh cho hành động của Người trong lịch sử cứu rỗi. Tỉ dụ, một số giáo phụ và nhà văn của Giáo Hội vốn kể sự thánh thiện tinh nguyên của Đức Mẹ là công trình của Chúa Thánh Thần; như thể Đức Mẹ “được Chúa Thánh Thần nhào nặn để trở thành một thứ vật chất mới và một thụ tạo mới”. Trong mối liên hệ đầy mầu nhiệm giữa Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ, các vị này thấy ra một khía cạnh gợi người ta nhớ tới hôn nhân… và các vị gọi Đức Mẹ là “Đền Thờ Chúa Thánh Thần”, một biểu thức muốn nhấn mạnh tới tư cách thánh thiêng của Đức Trinh Nữ, nay đã trở thành nơi ngự thường trực của Thánh Thần Thiên Chúa. Đào sâu hơn nữa học lý về Đấng Phù Trợ, các vị thấy rằng từ Người, giống như từ một suối nguồn, sự viên mãn của ơn thánh (xem Lc 1:28) và sự dư thừa hồng phúc đã tuôn trào ra để trang sức cho Đức Mẹ… Và trên hết, các vị đã chạy đến xin Đức Nữ Trinh cầu bầu ngõ hầu được Chúa Thánh Thần ban cho khả năng có thể ‘phát sinh’ ra Chúa Kitô trong linh hồn mình, như lời Thánh Ildephonsus từng cầu nguyện trong câu kinh bất hủ: “Ôi Nữ Trinh rất thánh, con van xin Mẹ cho con có được Chúa Giêsu nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng mà nhờ Người Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu…Ước chi con yêu mến Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, Đấng mà trong Người Mẹ từng thờ lạy Chúa Giêsu là Chúa và ngắm nhìn Người như Con Mẹ”.
Trong suốt cuộc sống trưởng thành của mình, Thánh Kolbe luôn cố gắng đào sâu mối liên hệ độc đáo và kín nhiệm của Đức Mẹ với Chúa Thánh Thần. Một cách đặc biệt, ngài coi các lời Đức Mẹ nói với Thánh Bernadette tại Lộ Đức: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai” có một ý nghĩa mạc khải quan trọng về phương diện này. Ta có thể nói: các lời Đức Mẹ nói với Thánh Bernadette luôn luẩn quẩn trong đầu Thánh Kolbe; vì lúc nào ngài cũng cố gắng nắm được tốt hơn mầu nhiệm sâu sắc ẩn sâu bên dưới. Ngài cho hay những lời trên không những cho ta thấy sự kiện Đức Mẹ được tượng thai mà không vướng tội, mà còn cho thấy cách thế đặc ân ấy thuộc về ngài nữa. Nó không phải là một điều tùy thể (accident), mà là một điều gì đó thuộc về chính bản tính của ngài. Vì ngài quả tình là Vô Nhiễm Thai bằng người”.
Trong trước tác sau cùng, viết vài giờ trước khi bị Quốc Xã bắt giữ vào ngày 17 tháng Hai năm 1941, Thánh Maximillian đạt tới một thông tuệ sâu sắc, không những giúp ta hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa Đức Mẹ và Chúa Thánh Thần mà còn giúp ta hiểu rõ hơn việc Người là Ngôi Vị Thiên Chúa đã tự đời đời từ Chúa Cha và Chúa Con ‘mà ra’, cũng như nắm vững hơn vai trò của Đức Mẹ trong việc phân phát mọi ơn thánh của Chúa cho con người trong kế hoạch cứu rỗi của Người.
Trong trước tác này, Thánh Kolbe nói rằng: trong khi Đức Mẹ là một thụ tạo Vô Nhiễm Thai, được dựng nên nhờ tình yêu của Thiên Chúa và nhờ công trình của Chúa Thánh Thần để trở thành một thụ tạo duy nhất được tràn đầy ơn thánh và được chỉ định làm Mẹ Thiên Chúa, thì Chúa Thánh Thần là đấng Vô Nhiễm Thai từ thuở đời đời và không phải là tạo vật, Đấng ‘đã được tượng thai’ bằng tình yêu tự đời đời diễn ra giữa Chúa Cha và Chúa Con; một tình yêu hoàn hảo đến độ đã được ngôi vị hóa. Bởi thế, Thánh Kolbe nói rằng Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Thai được dựng nên; và ngài được như thế là nhờ công trình trực tiếp của Đấng Vô Nhiễm Thai không phải là thụ tạo. Cả hai sự ‘tượng thai’ này đều là hoa trái tình yêu của Chúa; sự tượng thai đầu là thụ tạo và được thực hiện trong thời gian; sự tượng thai sau không phải là thụ tạo và là từ thuở đời đời. Một cách đầy ý nghĩa, chính ở đây, trong những chữ viết cuối cùng của ngài, Thánh Kolbe đã tặng danh xưng “Đấng Vô Nhiễm Thai Không Được Dựng Nên” (Uncreated Immaculate Conception)" cho Chúa Thánh Thần để phân biệt với Đức Mẹ, vốn là “Đấng Vô Nhiễm Thai Được Dưng Nên” (Created Immaculate Conception).
Rõ ràng là, trong các trước tác của mình, Thánh Kolbe đã nắm rất vững nền thần học của Thánh Tôma Tiến Sĩ. Ngài biết rằng ta chỉ có thể đặt tên cho Thiên Chúa bằng các thụ tạo mà thôi; vì Thánh Tôma Aquinô, trong phần đầu cuốn Summa Theologiae (Tổng Luận Thần Học), từng nói rằng lời nói là dấu chỉ các ý niệm, và ý niệm là tương hợp (similitude) của sự vật… Hệ luận là ta có thể đặt tên cho sự vật bao lâu ta hiểu rõ chúng. Ta biết Thiên Chúa nhờ các thụ tạo như là nguyên lý của chúng. Bởi thế, theo cách đó, Người có thể được chúng ta đặt tên nhờ các tạo vật, nhưng lẽ dĩ nhiên cái tên chỉ về Người không phát biểu được chính yếu tính thần linh của Người.
Thánh Kolbe cũng biết rằng Thánh Tôma không đặt tên riêng cho đấng thứ hai được phát sinh ra (procession) từ Ba Ngôi Thiên Chúa, vì nơi thụ tạo, việc sinh ra (generation) là nguyên lý thứ nhất của sự thông truyền bản tính (communication of nature), và việc sinh ra chỉ có thể gán cho việc phát sinh ra trí hiểu của Thiên Chúa (Ngôi Lời); chứ không thể áp dụng cho việc phát sinh ra ý chí (Tình Yêu). Bởi thế, việc phát sinh mà không phải là sinh ra, vì không có tên riêng, nên được gọi là “phà hơi” (spiration), tức việc phát sinh ra Thánh Thần. Đàng khác, Thánh Tôma còn nói rằng vì việc phát sinh ra Tình Yêu nơi Thiên Chúa không có tên riêng, nên Ngôi Vị phát sinh ra cách đó cũng không có tên riêng, mặc dù sau đó, thánh nhân vẫn dành cho Ngôi Vị này những tên riêng như “Tình Yêu” và “Hồng Ân” (Gift) trong khi nhận rằng làm thế chỉ vì “nghèo nàn trong ngôn từ”.
Trong trước tác sau cùng của mình, Thánh Kolbe viết tiếp rằng: Mọi sự hiện hữu, bên ngoài chính Thiên Chúa, vì từ Thiên Chúa mà ra và luôn luôn tùy thuộc vào Người, nên mang nét hao hao phần nào đó giống như Đấng Dựng Nên mình… bởi vì mọi loài thụ tạo đều là hậu quả của Đệ Nhất Nguyên Nhân.
Đúng là những ngôn từ ta dùng để nói về các thực tại thụ tạo chỉ nói lên sự hoàn hảo của Chúa một cách ngập ngừng, có giới hạn và loại suy (analogical) mà thôi. Chúng chỉ là những tiếng vang ít nhiều từ xa vọng lại nói về các phẩm tính của chính Thiên Chúa, cũng như các thực tại thụ tạo mà chúng đứng thay cho.
Theo Dwight P. Campbell, 1993 Catholic Polls, Inc.
Vũ Văn An